Đền Giáp Cả là ngôi đền có quy mô lớn nhất của các Giáp lại nằm ở vị trí trung tâm của làng nên hàng năm cứ đến “ Xuân Thu nhị kỳ” các Giáp trong làng đều mở đám rước ở các đền về đền Giáp Cả để tế lễ. Chính vì nằm ở vị trí trung tâm và có quy mô như vậy nên nhân dân địa phương gọi là đền Giáp Cả.
TÊN GỌI CỦA DI TÍCH : ĐỀN GIÁP CẢ
Theo sử cũ và một số bậc cao niên ở địa phương cho biết: xã Xuân Lâm trước đây có 05 ngôi đền thuộc 04 Giáp được nhân dân lập nên để thờ các vị thiên thần và phúc thần.
Đền Giáp Cả là ngôi đền có quy mô lớn nhất của các Giáp lại nằm ở vị trí trung tâm của làng nên hàng năm cứ đến “ Xuân Thu nhị kỳ” các Giáp trong làng đều mở đám rước ở các đền về đền Giáp Cả để tế lễ. Chính vì nằm ở vị trí trung tâm và có quy mô như vậy nên nhân dân địa phương gọi là đền Giáp Cả.
II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH
1. Địa điểm phân bố:
- Thời nhà Lê, huyện Nam Đường thuộc phủ Anh Đô, đền Giáp Cả thuộc thôn Tuần Lạ, xã Xuân La, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đường.
- Năm Đồng Khánh thứ nhất ( 1886) vì kỵ húy, huyện Nam Đường đổi tên thành huyện Nam Đàn, di tích thuộc thôn Tuần Lạ, xã Xuân La – huyện Nam Đàn.
- Năm 1890, đời vua Duy Tân, Nam Đàn được sắp xếp lại còn 04 tổng bao gồm: Xuân Liễu, Lâm Thịnh, Nam Kim, Bích Triều, ( riêng tổng Lâm Thịnh có 27 thôn xã, di tích đền Giáp Cả thuộc thôn Tuần Lạ, xã Xuân La, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn.
- Sau cách mạng tháng tám năm 1945 cho đến nay, do để ổn định lại đơn vị hành chính; Huyện Nam Đàn đã có một số lần thay đổi về mặt hành chính nữa, Tổng Lâm Thịnh tách ra thành 03 xã là Nam Quang, Nam Lâm và Nam Mỹ. Đến năm 1969, ba xã lại sáp nhập thành xã Xuân Lâm và từ đó đến nay xã Xuân Lâm vẫn được giữ nguyên. Hiện nay đền Giáp Cả nằm ở vị trí cũ ven đê, bên bờ tả ngạn sông Lam, thuộc xóm 13 xã Xuân Lâm.
2. Đường đến di tích: Đền Giáp Cả cách thành phố Vinh 15 km theo hướng Tây; Du khách có thể tới thăm di tích bằng đường bộ hoặc đường thủy theo 02 đường chính:
a) Đường bộ:
- Từ thành phố Vinh theo quốc lộ 46, tuyến Vinh – Nam Đàn khoảng 13 km, đến ngã ba Mậu Tài rẽ trái theo đường vào Hoàng Trù quê ngoại của Bác Hồ, sau đó du khách đi dọc theo đường rải nhựa khoảng 3 km gặp đê Tả Lam, du khách tiếp tục rẽ trái 1,5 km là đến di tích.
b) Đường thủy:
Từ thành phố Vinh lấy cảng Bến Thủy làm điểm xuất phát, đi ngược dòng sông Lam khoảng 15km, đến đầu địa phận chợ Liễu, xã Xuân Lâm, sau đó quý khách lên bờ Tả ngạn rồi đi bộ theo đường liên thôn khoảng 200 m là đến được di tích.
III. Nhân vật – sự kiện lịch sử:
A. Nhân vật lịch sử:
Theo một số sắc phong còn lưu giữ tại đền và tìm hiểu các vị cao niên trong làng kể và ghi chép lại thì đền Giáp cả trước kia là ngôi đền lớn của làng; Đây là công trình kiến trúc tín ngưỡng của dân làng xây dựng để thờ các vị thần có công “ Hộ quốc – tý dân” giúp dân, đem lại mưa thuận gió hòa. Vị thần được thờ chính tại đây có tên là Cao Sơn và Cao Các; Ngoài ra còn phối thờ một số vị thần khác do quá trình hợp tự ở một số di tích khác như: Hưng Đạo đại vương – Trần Quốc Tuấn, Sát Hải đại vương – Hoàng Tá Thốn, Tam Tòa thánh mẫu và Đông tri phủ Phạm Đình Kính – người có công khai canh, khai cơ, xây dựng và tu sửa cầu cống, lập nên vùng Xuân Lâm ngày nay.
* Cao Sơn – Cao Các:
+ Cao Sơn: Cao Sơn tên thật là Cao Hiển tự là Văn Trường, quê ở Bảo Sơn, quận Nam Hải – tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc; Ông sinh ngày 20 tháng 8 năm Bính Ngọ; Từ nhỏ nổi tiếng là người thông minh, thuộ làu kinh sử. Năm ông lên 15 tuổi thì mồ côi cha mẹ, năm 22 tuổi dưới triều vua Tống Hy Ninh ông thi đậu tiến sỹ, được vua giữ lại triều đình và phong đến chức quan Thượng thư. Lúc bấy giờ vùng biên giới nhà Tống có giặc quấy phá, Cao Hiển được vua Tổng cử đi chinh phạt ở vùng biên giới, ông đã nhanh chóng dẹp yên bọn phản loạn, giúp nhân dân yên ổn làm ăn. Với công lao to lớn đó, ở tuổi 30 ông đã được vua Tống phong đến chức Thừa tướng kiêm Nguyên soái đại tướng quân và được triều đình cử sang trấn thủ nước Nam với chức mới là Tuyên phó sứ, ông nhậm chức ở trấn Nghệ An, trên đường qua trang Phúc Bội, huyện Lương Giang, thấy thế đất tốt ở núi Đại Liễu, ông cho lập Cung đài gọi là Bến Tiên. Từ đó ông ở lại đây giúp nhân dân trồng trọt chăn nuôi, xua đuổi thú dữ, chữa bệnh, dạy cho nhân dân cách phát triển sản xuất.
Cao Hiển mất năm 103 tuổi, sau khi ông mất, vua Tống phong ông làm An Nam Quốc vương và giao cho dân An Nam lập đền thờ.
+ Cao Các: Cao Các người làng Cao xá, huyện Thọ Xuân, phủ Thanh Đô; Mẹ là bà Lê Thị Điểm, bố là ông Cao Trạnh; Cao Các sinh ngày 06 tháng 01 năm 938. Lúc nhỏ Cao Các vốn thông minh, có sức khỏe phi thường, dung mạo hơn người được nhân dân gọi là “ thần đồng”. Ông sinh ra trong cảnh nước hỗn loạn bởi loạn 12 sứ quân. Đất nước trong tình trạng bị chia cắt, nhân dân hết sức cực khổ. Trước tình hình đó, để có điều kiện giúp dân, giúp nước, Cao Các quyết tâm đi tìm gặp vua Đinh Bộ Lĩnh để xin đi dẹp loạn. Đinh Bộ Lĩnh thấy Cao Các có tư chất thông minh, chính trực, giỏi võ nghệ nên đã phong cho ông đảm nhận chức Giám Nghị đại phu và giao cho ông đi dẹp loạn. Với tài thao lược, dụng binh liệu sự như thần; Cao Các đã góp công lớn vào việc giúp vua Đinh lần lượt dẹp yên loạn 12 sứ quân, đưa non sông thu về một mối.
– Đất nước trở nên thanh bình, Đinh Bộ Lĩnh đưa quân về Hoa Lư, xây dựng kinh đô và tự xưng là Đại Đăng Đinh hoàng đế. Sau khi lên ngôi, vua Đinh ban cho Cao Các trấn thủ vùng đất An Ninh, thấy vùng đất này có phong cảnh sơn thủy hữu tình, dân cư lại ôn hòa nên ông quyết định cho quân sĩ lập quân cư tại đây. Ông đã tổ chức tập luyện võ nghệ cho binh sỹ, vừa tăng cường công tác phòng thủ vừa hướng dẫn cho nhân dân trồng trọt, chăn nuôi, chữa bệnh cho dân nghèo và luyện tập võ nghệ cho binh sỹ, giúp triều đình bảo vệ đất nước.
- Khi giặc Chiêm Thành đem quân sang quấy nhiễu nước ta, một lần nữa vua Đinh lại triệu Cao các về triều và giao cho ông thống lĩnh 5 vạn tinh binh đi đánh giặc. Với tài thao lược, mưu trí hơn người, Cao Các cùng quân sỹ đã đánh đuổi được quân giặc ra khỏi vùng đất biên cương, giành thắng lợi vẻ vang. Ghi nhận công lao của ông, Vua Đinh đã phong thưởng và giữ ông lại làm quan trong triều nhưng ông xin về quê sống một cuộc sống an bình ở vùng đất An Ninh cho đến khi qua đời.
Sau khi ông mất, triều đình nhà Đinh cho lập miếu thờ, đến đời vua Lý Thái Tổ, truy phong ông mỹ hiệu “ Đại vương” các triều đại tiếp sau đó gia phong cho ông là “ Thượng thượng đẳng, tối linh tôn thần”.
Đến thời Cảnh Hưng, đất nước lũ lụt lớn, đồng ruộng bị ngâm lâu, sâu bọ hoành hành, nhân dân làm lễ cầu đảo nhờ thần Cao Sơn – Cao Các phù hộ, quả nhiêm linh ứng, nhân dân lấy đó làm tin và rước bài vị của ngài Cao Sơn – Cao các về lập đền nhiều nơi để thờ phụng. Vì sự linh ứng của ngài mà nhân dân thôn Giáp Cả tôn ngài làm thần chủ ngôi đền của thôn. ( Ở đền Giáp Cả hiện nay còn lưu giữ 07 sắc phong về ngài, thần hiệu của ngài tại di tích là “ Bản Cảnh bản xứ, cao Sơn Cao Các thượng đẳng thần” tôn tam từ mĩ tự: “ Tích hỗ, thùy hưu, chiêu ứng”.
* Hương Đạo vương Trần Quốc Tuấn:
- Trần Quốc Tuấn sinh ngày 10 tháng 12 năm 1228 ( Mậu Tý), là con của An Sinh vương Trần Liễu ( anh ruột Trần Thái Tông – Trần Cảnh).
Ông có dung mạo tuấn tú, thông minh hơn người, hiểu rộng biết nhiều, đủ tài văn võ, chuyên tâm nghiên cứu lục thao tam lược của người xưa và dành cả tâm huyết của mình để viết Binh Thư yếu lược, Hịch tướng sỹ, Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy các tướng cầm quân đánh giặc, khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt.
Ông luôn đặt lợi ích của dân tộc,của đất nước lên trên thù nhà, luôn luôn vun trồng khối đoàn kết giữa tôn tộc nhà Trần để tạo cho thế nước phồn vinh, đủ sức đè bẹp quân thù nguy hiểm.
Trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, các vua Trần đều giao cho ông làm quyền Quốc Công tiết chế ( tức là Tổng tư lệnh quân đội) vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính nên tướng sỹ ai cũng hết lòng thương yêu.
Năm 1285, quân Nguyên Mông ào ạt tiến vào nước ta, để bảo toàn lực lượng, Hưng Đạo Vương đã ra lệnh cho quân và dân thực hiện kế sách “ Vường không – nhà trống”; Trước thế giặc mạnh, vua tôi nhà Trần sợ tổn hại đến đất nước, nên tính chuyện đầu hàng giặc; Trần Hưng Đạo đã trả lời: “ Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần trước đã” thể hiện ý chí quyết tâm của ông trước kẻ thù. Mùa hè đến quân giặc mệt mỏi, lại thêm dịch bệnh ốm đau, tinh thần hoảng loạn. Khi thấy quân giặc mệt mỏi không đủ sức khánh cự, Trần hưng Đạo mở cuộc phản công lấy lại kinh đô Thăng Long với những chiến thắng lừng lẫy như Chương Dương, Hàm Tử…
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3, Hưng Đạo Vương lại làm nên một chiến thắng vĩ đại với trận Bạch Đằng ( tháng 3 năm 1288), đập tan toàn bộ 50 vạn quân xâm lược Mông - Nguyên, giữ vững được nền độc lập cho dân tộc.
Mùa thu tháng tám, ngày 20 năm Canh Tý ( 1300) Bình Bắc Đại nguyên soái Hưng Đạo Vương qua đời; Vua Trần truy tặng Thái Sư thượng Phụ quốc công nhân vũ Hưng Đạo Đại vương, trong đó có đền Giáp Cả. ( Hiện nay do chiến tranh, thiên tai lũ lụt nên hiệu bụt của ngài không còn nữa nhưng trong văn tế hàng năm của đền vẫn còn lưu tên).
* Hoàng Tá Thốn:
Hoàng Tá Thốn có tên thật là Hoàng Ngọc Liêu, tự là Hoàng Minh, húy Thốn.
Tước hiệu: Chàng Lại đại vương tướng quân.
Mỹ hiệu: Tô Đại Liêu.
Hoàng Tá Thốn sinh ngày 15 tháng 3 năm 1242 tại thôn Vạn Phần nay thuộc xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu – tỉnh Nghệ An.
Hoàng Tá Thốn sinh ra trong một gia đình làm nghề chài lưới, cha họ Hoàng ( không rõ tên), mẹ của ông là người họ Trương, gốc ở Lý Trai nay thuộc xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu. Từ nhỏ ông đã khỏe mạnh, lớn lên có sức vóc hơn người, có tài bơi lội, giỏi võ nghệ.
Năm 1258, khi quân Nguyên – Mông sang xâm lược đất nước ta, đứng trước nạn ngoại xâm, nhà Trần đã tổ chức Hội nghị Diên Hồng, nhằm đưa ra kế sách đúng đắn và kêu gọi nhân dân cả nước đồng lòng nhất tề đứng lên đánh đuổi quân Nguyên, giữ vững độc lập cho nước nhà.
Đáp lại lời hiệu triệu đó, Hoàng Tá Thốn đã từ giã quê hương ra Thăng Long gia nhập vào đội quân thủy chiến của nhà Trần, dưới sự chỉ huy của tướng yết Kiêu. Với tài bơi lội và sức khỏe phi thường cộng với lòng dũng cảm mưu trí, ông đã lập được nhieuf chiến công trong các trận đánh và dìm được nhiều thuyền địch. Đặc biệt là trong trận Bạch Đằng năm 1288, ông đã dùng mưu giết được Ô Mã Nhi ở biển Đông nên được nhà Trần phong làm Sát Hải Chàng Lại đại tướng quân.
Sau khi dẹp xong giặc Nguyên, đất nước trở nên thanh bình, vua Trần giao cho ông thống lĩnh các đạo thủy binh, trấn giữ 12 cửa biền từ Hải Phòng cho đến Hà Tĩnh. Hoàng Tá Thốn cùng các con trai của mình xây dựng các vùng trạm, trại, căn cứ ở khắp vùng Nghệ Tĩnh để canh gác, bảo vệ vùng biển và lãnh thổ của nước nhà. Hoàng Tá Thốn đã huấn luyện được đội quân thiện chiến nơi sông nước, đã nhiều lần đánh tan bọn cướp biển giữ yên cuộc sống thanh bình cho nhân dân.
Trong thời kỳ ở tại quê hương, thấu hiểu và thông cảm với cuộc sống nghèo khổ của nhân dân nghề sông nước, ông đã cùng với các con trai đưa ngư dân ven biển Vạn Phần lên bờ khai hoang lập làng và dạy cho nhân dân làm nông nghiệp.
Hoàng Tá Thốn qua đời ngày mồng một tết nguyên đán năm 1314 trên đường đi sứ ở Thanh Hóa, thọ 72 tuổi. Vua tôi nhà Trần cảm phục công lao của ông đã cho thuyền rồng chở linh cửu của ông về an táng tại thôn Vạn Phần ( Diễn Vạn – Diễn Châu) và truy phong ông tước hiệu “ Đại Liêu thiên bồng đại tướng quân”.
Sau khi mất, dân làng tưởng nhờ và lập đền thờ ông ở nhiều nơi. Hoàng tá Thốn trở thành vị thần linh ứng phù hộ cứu dân khi thiên tai hoạn nạn. Vì thế Hoàng Tá Thốn được nhân dân vùng ven biển từ Ninh Bình đến Hà Tĩnh và những vùng đất do ông khai phá lập đền thờ phụng.
Trong bài cúng của làng Xuân lâm tại đền Giáp Cả vẫn còn ghi rõ vị hiệu của ông như sau: “…Sát Hải chàng lại đại tướng quân, quân mạnh lang hoàng minh tự Tô Đại Liêu tướng quân”.
* Tam tòa thánh mẫu:
1. Mẫu Liễu hạnh ( Mẫu đệ nhất):
Theo bản ghi chép có niên đại sớm nhất về bà chúa Liễu của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm ( 1705 – 1748) với truyện Nữ thần Vân Cát trong Truyền kỳ Tân Phả kể rằng: Bà Liễu Hạnh sinh ra trong một gia đình nghèo ở thôn An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản xưa, nay là xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ bà có tên là Giáng Tiên, càng lớn càng trở nên có nhan sắc xinh đẹp, lại chịu khó học hành nên đủ tài văn thơ, đàn nhạc.
Lớn lên Giáng Tiên kết hôn với chàng trai tên là Đào Lang, năm lên 21 tuổi vào ngày 03 tháng 03, Giáng Tiên đột ngột qua đời. Thực ra Giáng Tiên không chết mà đã hết hạn đày xuống hạ giới để trở về trời.
Trên thiên cung, Liễu Hạnh vẫn khao khát cuộc đời trần thế, liền tâu với Thượng đế giáng sinh xuống cõi trần cho thỏa nguyện. Chiều lòng, thượng đế cho nàng đem theo hai người hầu Quế và Thị thẳng vùng đất Phố Cát, Thanh Hóa hạ xuống; Đây là vùng đất đẹp có đường thiên lý đi qua. Tiên chúa thường hiển linh, người lành được phúc, kẻ ác bị trừng trị. Dân trong vùng lấy làm linh ứng nên lập đền thờ phụng. Từ đó nhân dân cầu phúc đều báo ứng ngày. Mỗi khi nhà vua đi đánh giặc, công chúa đều hiển linh giúp sức và được nhà vua phong tặng Chế thắng Hòa Diệu đại vương.
Mẫu Liễu được liệt là một trong Tứ bất tử của hệ thống thần linh Việt Nam. Ở gian thờ Tam tòa thánh mẫu tại đền Giáp Cả, mẫu Liễu Hạnh được đồng nhất với mẫu Thượng Thiên – mẫu Đệ Nhất ngồi ở giữa, mặc áo đỏ, hai bên là mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải.
2. Mẫu Thượng Ngàn ( Mẫu Đệ Nhị)
Truyền thuyết kể lại rằng: sau khi đánh thắng Thủy Tinh, Tản Viên được vua Hùng gả con gái tên là Mỵ Nương. Họ sống với nhau hạnh phúc và sinh được hai người con; Người con trai tên là Mai, người con gái xinh đẹp hiền thục tên là La Bình. La Bình có sắc đẹp và tài đức nên được Tản Viên hết mực yêu thương nên đi đâu người cũng cho đi cùng. Đi đến đâu nàng cũng yêu quý, quyến luyến với núi non và muông thú. Thấy vậy Thượng đế đã phong cho nàng là nữ chúa rừng xanh hay còn gọi là chúa Thượng Ngàn và giao cho nàng cai quản 81 cửa rừng xanh cõi Nam Giao. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, nàng đã hiển linh giúp cho các vua Trần đánh thắng giặc bảo vệ bờ cõi. Vì vậy các triều đại phong nhiều sắc chỉ. Tương truyền, vào thời kỳ đầu khởi nghĩa Lam Sơn, do lực lượng của ta và địch có nhiều chênh lệch, Lê Lợi phải rút lui vào một địa thế không có lợi, nữ chúa đã hóa thành bó đuốc dẫn lối cho Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi đi đến vị trí an toàn và chỉ cho Lê Lợi đóng quân ở đó.
Để tưởng nhớ và đời đời tuyên dương công lao to lớn của vị nữ chúa này, nhân dân đã tôn bà là Thánh Mẫu và lập nhiều đền miếu thờ phụng.
3. Mẫu Thoải ( Mẫu đệ tam)
Theo truyền thuyết dân vùng Ngàn Hống ( xứ Nghệ) kể rặng: Lúc mới mở nước, Kinh Dương Vương đi xem cảnh núi sống để tìm nơi dựng kinh đô, thấy cảnh núi non hùng vĩ, 99 ngọn núi cao vút trấn trên biển Hội, có thế rồng vây hổ chầu, Kinh Dương Vương lấy làm vừa ý, bèn sai quân lính đắp thành dưới núi , xây dựng lâu đài thành lũy…công việc tạm xong, nhà vua lại cưỡi thuyền trở ra phương Bắc tiếp tục cuộc tuần du. Thuyền của nhà vua theo dòng Thanh Long ( tức là sông Lam), đến gần cửa Hội Thống, bỗng thấy một người con gái mặt hoa da phấn, tóc đen mượt từ dưới nước nổi lên, tự xưng là thần Long. Người con gái ấy sau này trở thành vợ của Kinh Dương Vương – tức là mẹ của Lạc Long Quân.
Mẫu Thoải là vị nữ thần có công lớn trong việc trị thủy cũng như giúp dân đem lại mưa thuận gió hòa. Đời Lê Thành Tông, quân nhà vua đi đánh giặc ở phương Nam, đến vùng đất thuộc các huyện Phú Xuyên, Kim Bảng thì gặp một trận cuồng phong. Vua cầu khẩn đến các vị thần linh, mẫu Thoải đã cử tướng đến dẹp yên gió. Vì thế nhà vua phong cho vị tướng ấy là thượng đẳng thần.
Mẫu Thoải là vị thần tối linh thiêng, được nhà nước phong kiến xếp vào loại thượng đẳng thần. Trong tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ thì mẫu Thoải được gọi là mẫu Đệ tam. Người là thần Nước nên hiện thân của người ở trên điện thờ là vị thần mặc áo choàng trắng.
* Phạm Đình Kính:
- Phạm Đình Kính sinh vào thời Lê Trung Hưng, con của quan viên kiêm trùm trưởng Phạm Pháp Thành, vợ là Nguyễn Thị Trinh Thục. Đương thời là Đức Quang Phủ đồng tri phủ ở tổng Lâm Thịnh, phủ Anh Đô. Trong thời kỳ làm tri phủ, ông và vợ là Nguyễn Thị Khoan đã có công xây dựng , tu sửa cầu cống, khai thông thủy lợi, khai cơ lập làng, hướng dẫn cho nhân dân trồng trọt, chăn nuôi. Để tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân xã Xuân lâm đã tôn ông làm hậu thần và lập nhà trù thờ ông ngay tại đền Giáp Cả. ( Hiện nay nhà trù không còn nữa, nhân dân đã đưa ngài vào thờ ở ban thờ công đồng của đền). Hiện nay, tại nhà thờ họ phạm ở xóm 13, xã Xuân Lâm còn lưu bia đá bốn mặt kể về công trạng của ông ( nội dung văn bia xem phần phụ lục).
B. Sự kiện lịch sử
Đền Giáp Cả từ khi xây dựng cho đến nay, ngoài việc để tôn thờ, tưởng nhỡ các vị thần có công với dân với nước thì đền còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của một khu vực dân cư rộng lớn. Bên cạnh đó, đền còn là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của nhân dân địa phương nói riêng và nhân dân xứ Nghệ nói chung.
- Theo phong tục, cứ hàng năm tại đền Giáp Cả, ngoài ngày sóc - vọng ( ngày rằm, mồng một) đền còn có các nghi lễ, tết, cúng lễ…mang đậm bản sắc văn hóa của nhân dân địa phương nói riêng và dân tộc nói chung như :
+ Ngày 07 tháng 01 âm lịch, để chuẩn bị cho một năm mới làm ăn may mắn, mưa thuận gió hòa, dân làng lại tổ chức lễ cúng Khai hạ với đầy đủ lễ vật và đầy đủ các quan viên trong làng, trong tổng tham dự.
+ Ngày 15 tháng 3 âm lịch được xem là ngày lễ hội lớn của làng ( người dân gọi là lễ Hình Phù). Hàng năm cứ đến ngày này, nhân dân khắp nơi mũ áo chỉnh tề, nô nức tập trung về đền để dâng hương, vui hội. Nghi lễ rước kiệu từ đình làng và các đền lân cận về đền chính được thực hiện một cách chu đáo nghiêm trang.
+ Ngày 12 tháng 6 âm lịch, tại đền còn tổ chức lễ “ Kỳ Phúc lục ngoạt). Đây là lễ hội mừng cơm mới, để tỏ lòng biết ơn trời đất, thần linh phù hộ cho mùa màng bội thu…- Trong phong trào Xô Viết Nghệ Tinh 1930 – 1931, hưởng ứng phong trào của công nhân và nông dân diễn ra khắp nơi trên toàn tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của các cơ sở Đảng, các tổ chức “ Hội phụ nữ, thanh niên cộng sản đoàn..” hàng trăm người già tre, trai gái, lương giáo đổ ra đường tập trung tại bến Ghềnh, tổng Lâm Thịnh, nghe đại biểu dienx thuyết và chuẩn bị tiến xuống huyện lỵ Nam Đàn để biểu tình. Tại đền Giáp Cả cũng là địa điểm tập trung dân cư của làng để chuẩn bị cho cuộc biểu tình góp phần vào công cuộc đấu tranh làm nên cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Trong giai đoạn này, tại đền Giáp Cả cũng đã diễn ra một sự kiện quan trọng đó là tổ chức “ Nông Hội đỏ” được thành lập tại đây với 9 đồng chí do ông Nguyễn Trọng Bòi và Bành Trọng Hội đứng đầu. Hội đã đưa ra mục đích, tôn chỉ đòi giảm sưu, giảm thuế cho dân nghèo và chuẩn bị cho cuộc vận động nhân dân trong vùng tiến về huyện lỵ Nam Đàn biểu tình, hưởng ứng với không khí chung của toàn tỉnh.
- Năm 1936, tại đền Giáp Cả là nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của xã Xuân lâm do ông Nguyễn Xuân Hoa ( tức Bộ Lan) làm bí thư chi bộ.
- Năm 1945, để chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám, đền là nơi tổ chức các chi hội đoàn thể bí mật như: tổ chức Thanh niên, Nông hội, Phụ nữ cứu quốc…
- Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, đây là nơi tập trung của dân quân du kích và lớp bình dân học vụ của xã Xuân Lâm.
- Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954 – 1975), đền Giáp cả là trạm trung chuyển sức người, sức của cho chiến trường miền nam.
- Năm 1964 – 1965, đền Giáp Cả là nơi ở và làm việc của Đoàn giao thông vận tải tỉnh Nghệ An.
- Sau 1975, đền Giáp Cả được sử dụng làm trường học. Cho đến năm 1980, đền được trả lại nguyên trạng cho di tích, đảm nhận chức năng là nơi thờ cúng và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
IV. LOẠI HÌNH DI TÍCH
Di tích đền Giáp Cả thuộc loại hình di tích Lịch sử Văn hóa.
V. KHẢO TẢ DI TÍCH
1. Địa lý cảnh quan:
Đền Giáp Cả tọa lạc trên một khu đất rộng 1.142 m2, được bao bọc bởi hàng rào vôi vữa kết hợp vơi cây xanh. Đền nằm bên cạnh đường du lịch sinh thái ven sông Lam, tại xóm 4 – xã Xuân Lâm – huyện Nam Đàn. Đền là một công trình kiến trúc đẹp, bề thế, bố cục ba nhà trúc theo kiểu chữ nhị có chuôi vồ, bao gồm: Hạ điện, Trung điện và Thượng điện kết hợp với một số kiến trúc khác như: Cổng sân lộ thiên, nhà thiêu hương, bể cạn…tạo thành một quần thể di tích hoàn chỉnh. Đền quay mặt về hướng Tây bắc, trước là một hồ nước đẹp, xung quanh đền là vùng đất thổ cư.
* Các công trình kiến trúc
I.- Cổng đền ( Gồm cổng ngoài và cổng trong):
a) Cổng ngoài:
Cổng ngoài được tạo thành bởi 02 cột nanh, bố trí sát phía trước của đền, gồm 03 bộ phận tạo thành là chân bệ, thân trụ và chóp trụ. Bệ trụ, chóp trụ được tạo gờ gấp khúc liên tục, trên chóp trụ có đắp nổi hình con Nghê trong tư thế xưng chầu, như cảnh giới nới chốn thần linh. Cột nanh có chiều cao là 3,5m, cạnh 0,55m x 0,55m, khoảng cách giữa 02 cột là 0,8m. Mặt trước 02 cột nanh có nhấn nổi đôi câu đối bằng chữ Hán có nội dung:
Trấn địa anh linh tiêu dật thủy
Lăng tiêu chính khí thọ hồng sơn
Tạm dịch: “ Vùng đất anh linh có con sông đẹp chảy qua
Như mây trời chính khí toát lên vẻ đẹp cao tận núi Hồng”
Nối với hai cột nách phía ngoài với cổng trong là hệ thống tường xi măng thấp, cao 0,8 m được trang trí theo kiểu xuyên hoa tạo ra một lối đi dài 18m trước khi vào đền.
a) Cổng trong:
Cổng trong đền được xây bởi 02 cột trụ bằng gạch và vữa tam hợp, hình vuông, cạnh 0,35 m x 0,35 m, chiều cao của cột là 2,5 m, cổng đền rộng 1,85m. Trên đầu cột được trang trí bằng hai búp sen sứ mới, bệ cột được xây gờ chỉ dật cấp, cổng được bố trí thêm một cửa sắt cao 1,8m. Mặt trước và mặt trong trụ có nhấn 02 câu đối chữ Hán có nội dung:
* Câu đối mặt ngoài:
Đắc địa lâu đài lam thủy vịnh
Kình thiên đế trụ sắc sơn cao
Tạm dịch: “ Lâu đài đất quý nước xanh mãi
Trụ đá chống trời như ngọn núi cao”
* Câu đối mặt phía trong:
Vạn cổ anh linh truyền hậu thế
Thiên thu trở đậu quán tiền công
Tạm dịch:
“ Anh linh ngàn năm còn truyền hậu thế
Thiên thu ơn mãi các bậc tiền nhân xưa”
2. Tắc môn – nhà Mã ( nơi để và hóa vàng mã)
Phía trước sân là tắc môn ( bình phong), tắc môn được xây bằng gạch, vôi vữa, có kích thước: cao 1,2 m; Dài 2,0m; Dày 0,3 m. Mặt trước tắc môn đắp nổi hình một con hổ trắng đang đứng trên một tảng đá trong tư thế đầu ngảng cao, mặt dữ tợn.
Hai phía tả và hữu đền ở góc sân là 02 nhà hóa vàng mã, hai nhà này có diện tích xây dựng là 1,8m x 1,4 m; Cao 1,95m được xây bằng vữa tam hợp, mái lợp ngói âm dương, mặt trước trang trí cửa vòm và tạo họa tiết hoa văn đơn giản.
4. Nhà Hạ điện
Nhà hạ điện có mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật, có diện tích: 59,67m2 (10,2m x 5,85m). Hạ điện là một công trình kiến trúc mới xây năm 2003 dựa theo kết cấu nguyên bản của nhà Hạ điện của đền trước đây bao gồm 03 gian, 04 vì kèo, xây kiểu tường hồi nít đốc, mái lợp ngói tây, 02 đầu kìm đắp nổi hình đầu 02 con chim Phượng hoàn đang ẩn trong mây. Nền cao so với mặt đất là 0,2m, xung quanh nền nhà được bỏ vỉa bằng gạch thẻ có chất phụ gia là vữa tam hợp, nền nhà làm bằng vữa kết hợp với vỏ sò giã nhuyễn.
* Kết cấu kiến trúc: Nhà hạ điện có kết cấu vì kèo theo lối “ chuyền chụp” hay còn gọi là Thương cung hạ ke ( xem bản xẽ), khung nhà làm bằng gỗ lim. Nâng đỡ mái và các bộ phận của nhà hạ điện là hệ thống cột được đặt trên chân tảng làm bằng xi măng có hình vuông, rộng 30 cm x 30 cm, cao 10 cm.
– Các cột cái có chiều cao: 3,4 m, phy 0,22m.
– Các cột quân có chiều cao: 2,8 m, phy 0,2 m.
Các bộ vì được liên kết với nhan bằng hệ thống xà, tạo thành một bộ khung nhà vững chãi. Phía trên, tiếp giáp với câu đầu là rường con cung ăn mộng vào câu đầu và cột tạo thành 02 điểm tiếp giáp, đảm nhiệm chức năng đỡ hoành mái và thượng lương, tiếp theo là hệ thống kẻ chuyền ăn mộng vào cột cái chạy dọc xuống, xuyên vào cột quân và kéo thẳng ra đỡ mái hiên, tạo thành một sự liên kết vững chắc giữa các cột, xà, bẩy. Đặt trên các thanh kẻ chuyền là hệ thống hoành tải chắc khỏe, rải đều trên mái, với cách rải hoành như vậy tạo cho bộ mái trở nên chắc chắn và không gian nhà rộng rãi và thoáng, cao ráo. Khẩu độ, khoảng cách giữa các gian ( bước gian) và khoảng cách các cột nhà hạ điện có kích thước như sau:
- Khoảng cách giữa các bước gian: 1,05m – 2,65 m; 8m – 2,65, - 1,05 m
– Khoảng cách giữa các cột trong bộ vì: 1,1 m – 0,95m – 2,75m – 1,05 m
Phía trước nhà hạ điện bên tả và bên hữu được xây hệ thống tường lửng có trổ xuyên hoa trang trí, chiều cao 1,3 m, giữa là lối đi có chiều rộng 2,4 m.
Phía sau nhà hạ được chia làm 02 lối đi ra sau nhà trung điện, ở gian tả và gian hữu, gian giữa được xây tường kín, phía trên cùng trang trí các xuyên hoa có chiều cao 2,2m.
Bốn cột hiên trước nhà hạ điện, trên cột tiếp giáp với mái nhà được trang trí hoa văn cách điệu, đế cột được xây dật cấp liên tục, thân cột có nhấn hai đôi câu đối chữ Hán chân phương, nội dung các câu đối như sau:
* Câu đối 02 cột ngoài:
Bách niên cương thường vĩnh tại
Thiên thu hương hỏa trường tồn
Tạm dịch: “ Trăm năm đạo cương thường còn mãi
Ngàn thu hương hỏa vẫn trường tồn”
* Câu đối hai cột hiên giữa phía trước nhà hạ điện:
Hồng Lĩnh sơn cao miền bản tích
Lam giang thủy tụ hạ từ linh
Tạm dịch: “ Núi cao Hồng Lĩnh là còn dấu tích
Sông Lam là nơi tích tụ khí linh thiêng”
* Bài trí nội thất:
Nhà hạ điện vừa là nơi tập trung chuẩn bị trước khi hành lễ, cũng là nơi dâng hương thờ phụng nên được bài trí như sau: Ngoài cùng ( từ ngoài vào trong) đặt một chiếc bàn gỗ, trên bàn đặt một lư hương sứ cổ và 02 chân đèn bằng sứ. Phía sau bàn là hương án cổ, sơn màu nâu có chiều cao 1,6m, dài 1,45m, rộng 72 cm. Mặt trước và 02 mặt bên hương án chạm trổ hoa văn rất độc đáo với đề tài tứ linh: Long – Ly – Quy – Phượng. Trên cùng của hương án làm theo kiểu lan can có chạm khắc hình hai con rồng lớn đang chầu vào nhau với chi tiết chạm rất tinh xảo, mỗi con rồng ôm trọn hai mặt của góc. Tầng trên cùng của hương án được lồng ghép bởi hai kiểu chạm khắc khác nhau nhưng lại hòa đồng mềm mại với đề tài tứ quý: Tùng – Cúc – Trúc – Mai.Dọc thân hương án là hình rồng cách điệu, Phượng ẩn vân kéo dài cho tới sát chân hương án, tạo cảm giác bề thế, trang nghiêm. Trên hương án đặt một lư hương gỗ cổ lớn, 02 bên là hai bình hoa.
Trước hương án bố trí một con hạc đứng trên lưng rùa có chiều cao 2,1m, được chạm trổ công phu, sắc nét kết hợp với nghệ thuật tạo dáng, trên lưng hạc có khắc chữ “ Thành Thái tam niên” kết hợp với hương án cổ tạo thành một không gian thờ linh thiêng. Phía sau hương sán cổ là một hương án mới có chiều cao 1,8m, rộng 1,5 m, chia làm ba cấp sơn son thiếp vàng với nhiều chi tiết hoa văn phong phú. Trên hương án đặt một mâm bồng lớn khảm xà cừ, đây là nơi đặt các đồ lễ của khách thập phương, hai bên hương án được trang trí 02 bộ chấp kích cổ, sơn màu đỏ.
Gian bên phải nhà hạ điện ( từ trong ra) đặt một chiếc kiệu bành, sơn thiếp vàng với nhiều chi tiết hoa văn đẹp với đầy đủ ba bộ phận đòn kiệu, đế kiệu và bành kiệu. Đòn kiệu (đòn rồng) có chiều dài 2,8 m thể hiện thành hình rồng đầu ngầng cao, mắt lồi to, mũi phình ra, miệng ngậm trân châu, đuôi rồng uốn cong mềm mại. Đế kiệu trang trí xung quanh với hình tượng hổ phù, chân kiệu làm theo thế chân quỳ. Bành kiệu có chiều cao 1,5 m, dài 1,2m, rộng 0,95m ( bao gồm bệ kiệu) chạm trổ các họa tiết hoa văn với nhiều đề tài tứ linh, tứ quý. Phía sau lưng kiệu là một con rồng lớn đang ẩn mình vào mây, tạo cảm giác uy nghi nhưng không kém phần mềm mại.
4. Sân trung thiên, tường dắc
Khoảng cách giữa nhà hạ điện và nhà trung điện là sân trung thiên và hệ thống tường dắc, làm cho đền có đủ ánh sáng, cũng như tạo ra sự liên hoàn khép kín giữa các tòa nhà với nhau. Sân trung thiên có diện tích 46,1m2, dài 10,2m, rộng 4,55m, nền sân làm bằng vữa tam hợp, ở giữa sân trồng một cây tùng lâu năm.
Nối nhà trung điện với nhà hạ điện là dải đường dắc , chiều cao 2m, phía trên tường lợp ngói vảy, mặt trước của tường dắc bên trái ( từ tong ra) đắp nổi hình tượng các vị tướng tay cầm binh khí trông rất uy nghiêm, tường bên phải đắp nổi hình một người lính đang quản dắt một con ngựa chiến.
5. Nhà trung điện:
Tiếp theo sân trung thiên là nhà trung điện bề thế, nhà trung điện có diện tích 49,7 m2, chiều dài 8,65m, chiều rộng 5,75m. Nhà kết cấu theo kiểu nhà tứ trụ gồm 03 gian 02 hồi, mái lợp ngói âm dương, các bờ nóc, bờ giải đều đắp nổi các con vật trong bộ tứ linh. Bờ nóc đắp hình rồng trong tư thế Lưỡng Long chầu nguyệt, rồng uốn lượn mềm maijuyeenr chuyển, thân rồng chạy dài về hai phía gần như phủ kín cả nóc nhà, các đầu đao đắp hình các chịm Hạc và cá Chép. Khoảng cách từ sân trung thiên lên thềm nhà trung điện có chiều cao 20 cm. Hai bên tả hữu của nhà trung điện là hai bức phù điêu hai vị tướng bằng vôi vữa, đầu đội mũ cánh chuồn, mặc áo bào sặc sỡ, phía trước áo có đính mặt hổ phù, chân đi hài, tay cầm thanh long đao.
Cửa nhà trung điện làm theo kiểu pa nô, mỗi cánh cao 1,8m, rộng 0,7 m. Phía trên cửa treo bức đại tự Thiên địa hiếu, bên góc phải đại tự có ghi dòng lạc khoản Bảo Đại đinh sửu niên. Bốn cột hiên vuông ngoài được đắp nổi 04 câu đối bằng chữ Hán kiểu chữ chân phương, nội dung câu đối như sau:
* Câu đối cột hiên ngoài
“ Địa linh chung tú khí
Bích lập lậm anh phong”
Tạm dịch: “ Đất thiêng chung khí tốt
Xanh tựa gió anh linh”
* Câu đối ở cột hiên phía trong
“ Sương phi hổ tưởng nghiêm
Nhật dật long túy cận”
Tạm dịch: “ Sương bay như hổ uy nghiêm
Mặt trời lặn như rồng say ở gần”
Kết cấu bộ khung nhà trung điện làm hoàn toàn bằng gỗ lim, các bộ vì liên kết với nhau bằng hệ thống xà, kẻ, thượng lương tạo thành một bộ khung nhà vững chắc. Phía trên cùng tiếp giáp với thượng lương, hoành là thanh rường bụng lợn tỳ lực lên đấu vuông thót đáy, đấu này lại tỳ lực trên câu đầu, tạo thành điểm tự vững chắc cho hoành và thượng lương. Tiếp theo là kẻ chuyền đầu trên kẻ ăn mộng vào cột cái và cột quân để nâng đỡ quá giang và xà thượng, xà hạ và tàu mái. – Kết cấu vì kèo: “ Giá chiêng chồng rường” độ cao từ trên mái xuống nền nhà là 3,8m, từ nền lên dọt nước là 2,3 m. Tổng số cột là 16 cột trong đó có 08 cột cái, mỗi cột cái cao 3,2m, phy 0,24m, 08 cột quân mỗi cột cao 2,4m, phy 0,24 m. Các cột được đặt trên tảng bằng đá sa thạch màu nâu, hình tròn có đường kính 0,45m, cao 0,15m, nền nhà làm bằng vữa tam hợp ( cát, xi măng và vỏ sò). Khoảng cách giữa các cột, các gian ( bước gian) như sau:
- Khoảng cách giữa các cột trong vì: 1,0m – 1,1m – 1,55m – 1,1m – 1,0m
- Khoảng cách bước gian: 1,0m – 1,7m – 3,25m – 1,7m – 1,0m
* Nghệ thuật điêu khắc trang trí:
Trung điện là kiểu nhà có kết cấu khung gỗ chịu lực, được làm bằng gỗ lim với hệ thống cột nối kết vì kèo, xà, hạ bằng kỹ thuật lắp ghép mộng truyền thống, không những tạo cho bộ khung nhà chắc chắn, thoáng mát mà còn có giá trị về mặt sử dụng và nghệ thuật. Nghệ thuật điêu khắc ở nhà trung điện chủ yếu tập trung ở 08 bẩy hiên của nhà. Với lối chạm bong kênh công phu, cẩn thận, tỉ mỉ với đề tài tứ linh: “ Long – Ly – Quy - Phượng”; Thể hiện cách điệu qua các hình tượng “ Trúc hóa long, phượng hàm thư…”Hình tượng các con vật tứ linh ở đây sắp xếp đăng đối, với những chi tiết chạm trổ mềm mại, song cũng đầy tính ẩn dụ. Tạo cho di tích một “Không gian thiêng” phù hợp với vị thần mà nhân dân địa phương đang thờ phụng trong di tích.
* Bài trí nội thất
Gian giữa nhà trung điện đặt một chiếc bàn thờ gỗ cổ lớn, chiều cao 0,9 m, rộng 1,1m, dài 1,65m họa tiết hoa văn được trang trí giản đơn, phía trên bàn thờ đặt một mâm bồng cổ khảm xà cừ cỡ lớn có đường kính là 0,6m, một giá đọc chúc thư cao 40 cm rộng 42 cm, sơn son thiếp vàng, mặt trước có chạm hình lưỡng long đang uốn lượn, ở giữa là mặt trăng rực rỡ, phía mặt sau giá chúc thư chạm hình chữ “ Phúc”. Trước bàn thờ là chiếc đẳng thờ cao 95 cm, rộng 30 cm phía trên đặt bát hương sứ, hai bên là hai cọc sáp kiểu mới.
Phía sau bàn thờ là chiếc hương án lớn, có chiều cao 1,8m, rộng 1,6m chia làm hai tầng, sơn son thiếp vàng rực rỡ. Các mặt đều được trang trí, lưỡng long chầu nguyệt, sen dây, cúc dây, mẫu đơn…Mặt trước chính giữa chạm hổ phù, phần lớn các họa tiết hoa văn ở đây đều thể hiện bằng nghệ thuật chạm lộng truyền thống, với bố cục hợp lý thể hiện sự tài hoa của các nghệ nhân.
Trên hương án đặt 05 pho tượng thờ làm bằng gỗ mít, tượng trưng cho 05 vị thần được thờ ở trong nhà thượng điện, mỗi bức tượng có chiều cao 0,9m, ở tư thế ngồi trên ngai, đầu đội mũ cánh chuồn, khuôn mặt hiền từ nhưng cũng đầy vẻ huyền bí. Mỗi pho tượng được trang trí thêm một chiếc áo bào. ( 05 pho tượng này được nhân dân cung tiễn năm 2000).
– Gian bên phải ( từ trong ra ngoài) đặt một hương án mới sơn son thiếp vàng, có chiều cao 1,5 m, rộng 85 cm chia làm 02 cấp, cấp trên cùng đặt 03 tượng “ Tam tòa thánh mẫu”, có chiều cao 0,7m đang ở trong tư thế ngồi, tay đặt lên đầu gối, mắt nhìn thẳng về phía chúng sinh, toàn thân khoác áo choàng, mẫu mặc áo choàng xanh là mẫu Thượng Ngàn, Mẫu hiện diện với khuôn trăng đầy đặn, nét mặt hiền thục. Mẫu mặc áo choàng trắng là mẫu Thoải hay còn gọi là mẫu Đệ Tam.Mẫu mặc áo choàng đỏ là Mẫu Liễu Hạnh, được xem là mẫu nghi thiên hạ. Cấp thờ thứ hai đặt một mâm chè gỗ sơn đỏ, phía trước đặt một lư hương sứ lớn, hai bên là hai cọc nến gỗ có chiều cao 0,5m. - Gian bên trái ( từ trong ra) cũng đặt một hương án sơn son thiếp vàng có chiều cao 1,85m, rộng 85 com, tầng trên cùng đặt tượng Hồ Chí Minh có ghi dòng chữ “ Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại” tầng dưới đặt một lư hương sứ, hai cọc nến và hai bình hoa.
6. Nhà thượng điện
Phía sau nhà trung điện là nhà thượng điện, nhà thượng điện bố trí theo chiều
Dọc, có diện tích xây dựng 19,53 m2, dài 4,65m, rộng 4,2m, gồm 01 gian 02 vì, mặt trước thông với nhà trung điện và ngăn cách bởi một thanh xà ngưỡng có độ cao 60 cm ( không có cửa), 03 mặt xung quanh xây tường bao, mái lợp ngói âm dương, bờ nóc thẳng.
* Kết cấu kiến trúc
Nhà thượng điện làm theo kiểu nhà tứ trụ, có kết cấu vì kèo theo kiểu Chồng rường, với phương thức trốn hai cột cái tạo cho không gian nhà được rộng rãi hơn, nhà thượng điện làm bằng gỗ lim có 04 cột gỗ, mỗi cột có đường kính 0,24cm, cao 2,6 m. Kết cấu vì kèo sắp xếp theo một trật tự nhất định, phía trên cùng tiếp giáp với thượng lương, là một đấu hình thuyền được kê trên rường bụng lợn, rường bụng lợn lại được đặt trên 02 trụ trốn thông qua đấu vuống thót đáy, song song với trục trốn là 01 rường cụt được đặt trồng trên hai đấu và nằm trên thanh quá giang tạo cho vì kèo có một kiến trúc chắc chắn nhưng mang tính thẩm mỹ cao.
* Bài trí nội thất
Nhà thượng điện là nơi thờ chính của đền Giáp Cả, hệ thống thờ tự ở đây bố trí sắp xếp theo chiều dọc. Ngoài cùng án ngữ giữa gian nhà thượng điện là chiều kiệu Long Đình sơn son thiếp vàng, chiều cao tính cả chân kiệu là 2,1 m chia làm 03 tầng: mái kiệu, thân kiệu và đế kiệu. Mái kiệu trang trí hình chóp, bờ nóc của mái trang trí hình rồng, chóp kiệu là một khối hình vuông trang trí hoa cúc dây. Thân kiệu là bộ phận được trang trí tinh xảo và tỉ mỉ và chia làm hai lớp , lớp ngoài cùng trang trí hình Lưỡng Long cách điệu đang chầu vào một mặt rồng lớn áp sát mái tạo thành một bức cửa võng. Lớp trong trang trí hoa cúc dây kéo dài từ thấp lên cao, cửa kiệu trang trí hình rồng chầu mặt nguyệt. Đế kiệu chạm theo lối chạm lộng dân gian với các đề tài rồng phượng cách điệu như cúc hóa long đang chầu vào mặt nguyệt, phía trong có chữ thọ, chân kiệu được làm theo kiểu chân quỳ.
Tiếp theo kiệu Long Đình là bàn thờ cổ bằng gỗ được chia làm hai lớp, chiều cao là 0,9m, rộng 1,4m. Phía trên cùng đặt 05 bộ long ngai bài vị. Bài vị chính của đền có ghi dòng chữ “ Bản cảnh, bản xứ trùng lĩnh đại vương Cao Sơn – Cao các, thượng thượng đẳng thần”. Long ngai có chiều cao 115 m, rộng 63 cm, tay ngao 80 cm, sơn thiếp vàng, quanh bệ long ngai có chạm khắc hoa văn, rồng chầu mặt nguyệt, long mã…Tay ngai chạm đầu rồng rất tinh xảo, trong ngai đặt bài vị, trên bài vị có đội mũ hình lăng trụ . Phía trước long ngai bài vị đặt một lư hương sứ thờ và 05 hộp đựng sắc phong. Các long ngai còn lại có chiều cao 1,1 m, rộng 50cm, tay ngai 65 cm.
VII. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - NGHỆ THUẬT
1. Giá trị lịch sử
- Đền Giáp Cả là công trình tín ngưỡng – nơi thờ tự và tưởng niệm các vị thần có công với dân với nước, được nhân dân tôn làm phúc thần. Vị thần đó rất linh ứng, được nhân dân không những ở đền Giáp Cả mà còn được nhiều nơi thờ phụng đó là Cao Sơn – Cao Các, Tam tòa thánh mẫu, Hưng Đạo đại vương, Hoàng Tá Thốn, Phạm Đình Kính.
Qua những tài liệu, hiện vật, những sự kiện lịch sử còn lưu giữ tại đền như: Sắc phong, câu đối, văn tế, vị hiệu…đây là những cứ liệu cụ thể giúp chúng ta có thể khẳng ddingj được vị thần được thờ tại di tích và sự đóng góp của vị thần đó đối với nhân dân trong quá trình chinh phục tự nhiên. Bên cạnh đó, những hiện vật còn lại ở đền còn là những di sản quý giá đã gắn bó với lịch sử và nhân dân địa phương từ rất lâu đời. Mặc dù di tích qua thời gian, trải qua nhiều biến cố của tự nhiên và con người nên không còn được nguyên vẹn đầy đủ như trước, nhưng vẫn còn in đậm nét lịch sử văn hóa của quê hương, con người xã Xuân Lâm nói riêng và xứ Nghệ nói chung. Đây cũng là nơi lưu giữ nhiều tư liệu và hiện vật quý giúp chúng ta hiểu thêm về lịch sử của một vùng đất cũng như các sinh hoạt văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc gắn với di tích. Bên cạnh đó, đến với di tích chúng ta có thể tìm hiểu và tiếp cận thêm nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của nhân dân địa phương trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.
2. Giá trị văn hóa – nghệ thuật
* Giá trị văn hóa vật thể Qua tìm hiểu và khảo sát tại đền Giáp Cả, chúng ta thấy di tích là một công trình kiến trúc thực sự có giá trị về mặt văn hóa và lịch sử. Trước hết phải nói rằng, di tích đền Giáp Cả là một ngôi đền có quy mô còn lại ở xã Xuân Lâm cho đến ngày nay, dựa theo kiến trúc nghệ thuật, sắc phong sớm nhất tại đền Giáp Cả thì đây là công trình kiến trúc cổ có tuổi thọ trên 300 năm. Bên cạnh đó, đi sâu vào tìm hiểu về nội dung, giá trị kiến trúc nghệ thuật, qua các công trình như kết cấu vì kèo nhà trung điện, thượng điện, xà bẩy nhà trung điện, hiện vật, đồ tế khí trong đền như: Long ngai, bài vị, hương án…Thông qua các chi tiết được thể hiện trên đó, chúng ta thấy được sự sáng tạo cũng như tài năng, trí tuệ của cha ông ta đời xưa. Điểm chú ý trong giá trị kiến trúc nghệ thuật của đền đó là kết cầu vì kèo của nhà trung điện và nhà thượng điện, vừa đảm nhận công năng ứng dụng như làm cho ngôi nhà cao, thoáng cũng như tính thẩm mỹ. Bên cạnh đó đền Giáp Cả còn mang một số giá trị về mặt điêu khắc đầy tính triết lý và phong phú về mặt đề tài như: Long – Ly – Quy – Phượng; Tùng – Cúc – Trúc – Mai được cxhamj trổ cách điệu theo các tư thế như: Trúc hóa long, Long ẩn vân, Phượng hàm thư, Cá Chép hóa rồng…được người xưa chạm trổ khéo léo, tỉ mỉ qua một số cấu kiện của nhà như bẩy hiên, nghé.
* Giá trị văn hóa phi vật thể
Ngoài giá trị văn hóa vật thể nói trên thì di tích đền Giáp Cả còn để lại cho địa phương nói riễng và xứ Nghệ nói chung một di sản văn hóa vật thể quan trọng.
Đền Giáp Cả không chỉ là nơi gặp gỡ, cố kết cộng đồng, cũng như để tỏ lòng biết ơn đến vị thần có công với dân với nước, thể hiện truyền thống đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn” mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và cũng là nơi diễn ra các nghi lễ thờ cúng, lễ hội làng. Hàng năm cứ đến ngày 15 tháng 3, tại đền lại đầy đủ sắc màu cờ phướn, ban đêm dân làng tổ chức giao lưu văn nghệ thi hát phường vải, hát ví, hát dặm, ban ngày làm lễ tế thần, các quan viên chức sắc trong làng cùng nhân dân đều dâng hương, tiến lễ và tổ chức một số trò chơi dân gian như: đua thuyền, đánh vật, kéo co, cờ người, chọi gà…
Vào dịp lễ này nhân dân ở các Giáp tập trung về đền Giáp Cả để dâng lên các vị thần, thành hoàng những mâm cơm trắng, xôi thịt để tỏ lòng biết ơn và cầu mưa thuận gió hòa cho mùa vụ sau.
VIII – TRẠNG THÁI BẢO QUẢN DI TÍCH
Qua nghiên cứu các tài liệu cũ, gia phả một số dòng họ, văn bía, sắc phong, ca dao truyền miệng…của xã Xuân Lâm xưa và một số lời kêt của các vị cao niên cung cấp, đồng thời kết hợp với khảo sát tại di tích và thông qua cuộc họp xác minh di tích đền Giáp Cả tại địa phương, căn cứ vào một số kết cấu kiến trúc của di tích cho thấy:
- Di tích đền Giáp Cả được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng ( nhưng không rõ ngày tháng năm nào) giai đoạn này gắn liền với quá trình khai canh, khai cơ của một số dòng họ lớn ở vùng dất Xuân Lâm xưa.
- Từ khi xây dựng, đền đã có đầy đủ 03 tòa thượng, trung, hạ điện hoàn chỉnh với quy mô lớn, mái lợp ngói âm dương và qua một số lần tu sửa nhỏ và bảo quản cho đến ngày này thì di tích vẫn còn nhà trung điện và thượng điện tương đối nguyên vẹn, chỉ có nhà hạ điện đã bị tháo gỡ làm hợp tác xã mua bán năm 1952.
+ Năm 1946 thực hiện tiêu thổ kháng chiến, một số đền đã bị tháo dỡ và đưa đồ tế như: Long ngai, bài vị về phối thờ tại đền Giáp Cả.
– Năm 1964 – 1975 đền làm địa điểm trung chuyển hàng hóa quân lương và là nơi làm việc của lực lượng vũ trang quân khu IV.
– Năm 1970 đến 1976 đền Giáp Cả dùng làm lớp học cho học sinh xã Xuân Lâm
– Năm 1987 đền Giáp Cả được trả lại công năng như vốn có ban đầu của di tích, đó là nơi thờ vị thần thành hoàng làng cũng là nơi phục vụ văn hóa tín ngưỡng của nhân dân xã Xuân Lâm.
Năm 2003, nhân dân và UBND xã Xuân Lâm đã phục dựng lại ngôi nhà hạ điện, trả lại cho di tích một khuôn viên hoàn chỉnh như ngày hôm nay.
IX – PHƯƠNG ÁN BẢO VỆ, SỬ DỤNG DI TÍCH
– Đền Giáp cả là một di tích lịch sử văn hóa có kiến trúc cảnh quan đẹp và bề thế không những của xã Xuân Lâm mà còn nổi tiếng trong vùng. Là những người làm công tác quản lý, tuyên truyền bảo vệ di tích, Ban quản lý Di tích Danh thắng Nghệ An cùng với UBND xã Xuân Lâm đã đề ra phương án bảo vệ di tích đền như sau:
A. Phương án bảo vệ:
1. Thực hiện khoanh vùng bảo vệ di tích, xác định ranh giới bảo vệ di tích, cắm bia, biển bảo vệ và lập hồ sơ chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích.
2. Xếp hạng di tích để tạo cơ sở pháp lý trước mặt và lâu dài cho di tích.
3. Thành lập tổ bảo vệ di tích dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, thực hiện đầy đủ thủ tục bàn giao hiện vật và quy trách nhiệm cụ thể cho từng người, có phương án bảo vệ cho các cổ vật hiện có tại di tích. Thực hiện tốt công tác quản lý phát huy giá trị di tích tổ bảo bệ và di tích phải chịu trách nhiệm thực hiện những quy định trong biên bản.
4. cắm biển hướng dẫn nội quy thăm viếng di tích
5. Tuyên truyền vận động cho nhân dân hiểu biết và thực hiện Luật Di sản văn hóa ( 92/2002 – CP ngày 11/11/2002) của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa.
6. Trong quá trình chống xuống cấp di tích, khi sửa chữa luôn phải có phương án trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt, đảm bảo yếu tố khoa học và tính pháp lý.
7. Tăng cường kiểm tra xử lý các sai phạm trong việc lấn chiếm và tự phát thực hiện các hoạt động như: mê tín dị đoan, hay sửa chữa, sắp đặt, gỡ bỏ tượng pháp khi chưa báo cáo với cơ quan chức năng.
8. Các tu sửa nhỏ do nhân dân địa phương và tổ bảo vệ di tích tự quyết định dưới sự giám sát của cán bộ chuyên ngành ( Ban QLDT – DT tỉnh Nghệ An).
9. Vận động nhân dân và con em địa phương đang sinh sống trong nước và nước ngoài, các nguồn công đức, kết hợp với các nguồn kinh phí của Nhà nước ( nếu có) để tu sửa và phát huy truyền thống văn hóa ở di tích.
B – Phương án sử dụng:
1-Tích cực nghiên cứu, có các bài giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng để nắm rõ nội dung, giá trị nhằm tuyên truyền giới thiệu.
2- Duy trì các hoạt động văn hóa truyền thống như lễ hội, dâng hương, tưởng niệm các nhân vật được thờ trong di tích, phục hồi các lễ hội, sinh hoạt văn hóa dân gian gắn với di tích, với địa phương.
3- Lãnh đạo địa phương, thành viên tổ bảo vệ phải nắm rõ nội dung, giá trị di tích để tuyên truyền và hướng dẫn du khách tham quan.
4- Tại di tích phải có bảng giới thiệu nội dung giá trị di tích để tuyên truyền sâu rộng cho du khách khi tới tham quan, thăm viếng di tích.
5- Có kế hoạch xây dựng phục hồi di tích và phục hồi lại các công tình theo kiến trúc ban đầu.
X – CƠ SỞ PHÁP LÝ BẢO VỆ DI TÍCH
– Di tích đền Giáp Cả được xây dựng cách ngày nay trên dưới 300 năm, đây là nơi thờ vị thần có công trong việc Họ quốc tý dân cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và du khách thập phương. Từ khi xây dựng cho đến nay luôn được các triều đại, Nhà nước quan tâm bảo vệ, thông qua các sắc phong và chiếu chỉ thời phong kiến: như sắc phong Cảnh Hưng, Duy Tân, Khải Định…
-Từ tháng 8 năm 1945, di tích được bảo vệ theo sứ lệnh 65/ SL – CT ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc “ Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam” và Nghị định 519/ TTg của Thủ tướng Chính Phủ.
- Năm 1984 đến năm 2001 di tích đền Giáp Cả được bảo quản theo pháp lệnh số: 14/ LCT, HĐND về việc bảo vệ sử dụng các di tích lịch sử văn hóa - danh lam thắng cảnh do Chủ tịch Họi đồng Nhà nước Việt Nam ký ngày 31 tháng 3 năm 1984.
- Đền Giáp Cả cũng có tên trong danh mục kiểm kê phổ thông của bảo tàng Nghệ An qua các năm như: 1964, 1972, 1976, 1992, 1996 và bản kiểm kê mới nhất của Ban quản lý Di tích – Danh thắng tỉnh Nghệ An năm 2006.
- Từ năm 2001 dến nay đền Giáp Cả được bảo quản, sử dụng theo Luật di sản Văn hóa ( số 28/ QH 10).
- Đồng thời để tạo cơ sở pháp lý bảo quản, tu bổ, phát huy giá trị văn hóa được tốt hơn, di tích đèn Giáp Cả đã được đưa vào danh mục phân cấp quản lý và qiao cho huyện quản lý theo Quyết định : 1306/ QĐ – UBND năm 1997 của UBND tỉnh Nghệ An.
- Năm 2003để bảo vệ di tích , chính quyền và nhân dân xã Xuân Lâm đã quyên góp công đức để khôi phục lại dền, đồng thời tiến hành lập tờ trình, trình Sở VHTT, ban QLDT – DT tỉnh làm thủ tục xếp hạng di tích.
Như vậy từ khi xây dựng cho đến nay đền Giáp Cả luôn được nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ, tu sửa và phát huy giá trị nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân.
BIA CẦU CẤN Ở XÃ XUÂN LA
( trùng tu Cân Cấn kiều bi công đức)
1.Tiểu dẫn: Bia cầu Cân Cấn để ở đường cái, xã Xuân La, huyện Nam Đàn, Phạm Đình Kính, mậu lâm tá lang Đức Quang phủ, soạn, tạo năm Cảnh Hưng 5 ( 1744), nhà Lê.
2. Nội dung tóm tắt Cầu Cân Cấn là do Quan Viên tử kiêm trùm trưởng Phạm Pháp Thành và vợ là Nguyễn Thị Trinh Thục hiệu Diệu Đạt xây dựng. Vè sau con trai của ông bà là Mậu Tá Lang đức quang phủ đồng tri phủ Phạm Đình Kính và vợ là Nguyễn Thị Khoan tu sửa lại. Cầu gồm 05 nhịp, bên trên lợp ngói, dưới sàn là gỗ tấm, đóng đinh lợp mái chắc chắn. Phong cảnh đẹp tuyệt vời, thuận tiện cho việc giao thông ở địa phương, cuối bia có bài minh ca ngợi cảnh đẹp và công đức này.
Theo “ Văn khắc Hán Nôm Việt Nam”
Sdđ, trang 1044, 1045